Thực học là gì? Tham chiếu cho nền giáo dục thực học

Admin

Từ các gốc trọng khoa bảng thời phong kiến, “cơn khát” bằng cấp, học vị chưa bao giờ nguôi trong tâm lý người Việt. Một cuộc cách mạng giáo dục giờ đây cấp bách hơn cả, nó là một con đường dài, mang tính vĩ mô, là trọng trách của cả một đất nước. Khi đó, Thực học sẽ dẫn lối cho cuộc cách mạng này. 

Thực học là gì?

Thực học là học thật, học vì bản thân của chính sự học chứ không phải vì cái gì khác. Đó là ý nghĩa và giá trị về nội dung chứ không phải hình thức, vì nhu cầu lợi ích thực sự, thực chất của mình, chứ không phải để phô trương, trình diễn giả tạo bên ngoài. Thực học phải mang lại giá trị thiết thực cho bản thân, cho xã hội, học chủ động, tập trung và hướng đến những giá trị đích thực.

Trong một buổi chia sẻ về chủ đề “Bàn về Sự học” với đội ngũ giảng viên và ban lãnh đạo một trường Đại học, một người thầy đã đặt câu hỏi cho tôi: Nếu nói về thực học trong một câu, thì sẽ là gì. Tôi đã xin phép trả lời bằng một câu hỏi khác: Nếu trường Đại học này không cấp bất cứ một tấm bằng nào, thì có ai theo học không? Nếu đáp án là có, thì đó chính là thực học! – TS. Giản Tư Trung.

Thực học là học thật, học vì bản thân của chính sự học chứ không phải vì cái gì khác

Đặc điểm của thực học

Tư duy tích cực

Thực học là gắn liền với tinh thần cầu thị – một phẩm chất cốt lõi được bồi đắp bởi tư duy tích cực. Nó giúp người học tiếp cận kiến thức với sự cởi mở, tò mò và hứng thú. Giúp người học tự tin vào khả năng của bản thân, sẵn sàng đối mặt với thử thách và không ngừng tìm kiếm giải pháp cho những vấn đề gặp phải.

Tư duy tích cực còn là động lực thúc đẩy người học tiến bộ. Nó giúp họ nhìn nhận thất bại như cơ hội để học hỏi, cảm thấy hạnh phúc trong quá trình chinh phục tri thức. Nhờ vậy, người học sẽ kiên trì theo đuổi mục tiêu và đạt được thành công trong học tập.

Kiên nhẫn

Đối với người thực học, nhẫn nại là chìa khóa để khai mở tri thức. Người học ý thức được rằng con đường học tập không hề bằng phẳng, mà luôn có những thử thách và khó khăn. Kiên nhẫn còn là biểu hiện của sự tôn trọng với bản thân và tri thức. Người thực học hiểu rằng, kiến thức không thể ngấm vào tâm trí chỉ sau một đêm, mà phải dành thời gian để nghiên cứu, suy ngẫm và thấu hiểu từng khía cạnh của vấn đề. Họ không vội vàng kết luận hay đưa ra những nhận định chủ quan.

Liên tục, bền vững

Con đường học tập đích thực là hành trình dài rèn luyện và hoàn thiện bản thân, nó không có điểm kết thúc. Thực học gắn chặt chẽ giữa lý thuyết và thực tiễn, kiến thức không chỉ nằm trên trang giấy, mà phải được vận dụng vào thực tiễn đến giải quyết vấn đề, để tạo ra những giá trị hữu ích cho bản thân, cho xã hội.

Thế giới luôn thay đổi, phát triển không ngừng nghỉ, và tinh thần thực học do đó mà phải chảy dài, liên tục và bền vững. Nếu ta không liên tục cập nhật, không chịu mở mang để tiếp thu cái mới, tư duy lâu dần sẽ trở nên hạn hẹp và trì trệ.

Đạo đức

Trong thực học, tính đạo đức là nền tảng cốt lõi, là linh hồn tạo nên giá trị đích thực cho quá trình học tập và rèn luyện. Nó thể hiện qua sự trung thực, liêm chính trong việc tiếp thu kiến thức, tôn trọng tri thức và bản quyền, đồng thời đề cao tinh thần trách nhiệm đối với bản thân và cộng đồng.

Thực học gắn liền với việc rèn luyện đạo đức, phẩm chất, bồi dưỡng nhân cách, hướng đến những giá trị tốt đẹp, cao quý. Thiếu đi đạo đức, bản thân từ “học” sẽ trở nên méo mó, đánh mất giá trị nhân văn cao đẹp.

Tinh thần sáng tạo

Giống như một viên kim cương thô, kiến thức chỉ thực sự tỏa sáng khi được mài giũa bởi tư duy sáng tạo. Nó giúp ta vượt qua lối mòn, phá vỡ những khuôn khổ rập khuôn, để từ đó tìm ra những hướng đi mới, những giải pháp độc đáo cho những vấn đề tưởng chừng như đã bế tắc.

Tinh thần sáng tạo còn thôi thúc người học đặt câu hỏi, nghi ngờ những điều tưởng chừng như hiển nhiên, và không ngừng tìm kiếm những câu trả lời mới. Nhờ vậy, người học có thể mở rộng tầm hiểu biết, bứt phá giới hạn bản thân và góp phần vào sự phát triển của khoa học, xã hội.

Đặc điểm của thực học

Mục đích của thực học

Học không hẳn là để trở thành người tốt (good person) mà để trở thành người tốt hơn (better person). Bởi lẽ, nếu học để trở thành người tốt thì nhiều khi rất áp lực và khó khả thi, nên cũng dễ cảm thấy bất lực, vả lại nếu đã trở thành người tốt rồi thì sẽ ngộ nhận là không cần phải học nữa. Tuy nhiên, nếu đạo học là học để trở thành người tốt hơn, ta sẽ có niềm tin vào bản thân, từ đó ta sẽ tin vào con người, tin vào cuộc sống, và tin rằng ai cũng có thể tốt hơn theo thời gian nhờ thực học. Từ “đạo học”, ta cũng sẽ ngộ ra “đạo sống” (sống để làm gì) và cả “đạo nghề” (làm để làm gì) cho mình. – Cứu xã hội “loạn chuẩn” bằng việc thực học (Nguồn: vnexpress).

Nâng cao kiến thức và kỹ năng thực tiễn

Mục đích cốt lõi của thực học chính là để trở nên tốt hơn, để nâng cao cả về kiến thức lãn kỹ năng thực tiễn. Kiến thức được tiếp thu qua thực học giúp ta hiểu rõ bản chất vấn đề, giải quyết những tình huống cụ thể, tạo ra giá trị thiết thực cho bản thân và xã hội. Kỹ năng thực tiễn rèn luyện tư duy độc lập, sáng tạo, khả năng thích ứng với môi trường mới, giúp người học tự tin và bứt phá những giới hạn.

Phát triển tư duy độc lập

Thông qua thực học, người học va vấp với thực tế, tự mình giải quyết vấn đề và đưa ra quyết định. Quá trình này giúp rèn luyện khả năng phân tích, đánh giá, nhìn nhận vấn đề khách quan, đa chiều, hình thành tư duy độc lập và sáng tạo.

Trong một thế giới biến động không ngừng, tư duy độc lập là một phẩm chất thiết yếu để một người có thể tồn tại và phát triển. Tư duy độc lập giúp ta tránh khỏi hiệu ứng đám đông và những giáo điều. Giúp ta tự tin vào bản thân, dám nghĩ dám làm, sẵn sàng đối mặt với thử thách.

Bài trừ lối học hình thức

Học hình thức, trái ngược với thực học, chỉ tập trung vào việc ghi nhớ lý thuyết một cách máy móc, thiếu đi sự hiểu biết sâu sắc và khả năng ứng dụng thực tế. Kiến thức thu nạp được theo cách này thường nhanh chóng bị lãng quên và không mang lại lợi ích gì cho người học.

Vì vậy, mục đích của thực học không chỉ là để phân biệt với học hình thức, mà còn là để hướng đến một nền giáo dục toàn diện, giúp người học phát triển đầy đủ năng lực và phẩm chất cần thiết cho cuộc sống. Thực học giúp người học trở thành những con người chủ động, sáng tạo, có khả năng tư duy độc lập và giải quyết vấn đề hiệu quả.

Phụng sự xã hội

Người thực học luôn hướng đến việc sử dụng kiến thức của mình để phục vụ cộng đồng, giúp đỡ những người yếu thế và giải quyết những vấn đề cấp bách của xã hội. Lịch sử đã chứng minh, những bậc hiền triết, anh hùng dân tộc, những nhà khoa học lỗi lạc,... đều là những người thực học và luôn tâm niệm phụng sự xã hội.

Ngày nay, xã hội đang đứng trước nhiều thách thức lớn như biến đổi khí hậu, bất bình đẳng xã hội, dịch bệnh,... Do đó, vai trò của thực học càng trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Chúng ta cần rèn luyện bản thân, trau dồi kiến thức và kỹ năng để có thể đóng góp sức mình vào việc giải quyết những vấn đề chung.

Mục đích của thực học

Giá trị của thực học đối với tuổi trẻ trong cuộc sống giữa thời đại mới

Trong thời đại mới, nơi mà công nghệ và thông tin thay đổi nhanh chóng, giá trị của thực học đối với tuổi trẻ, đặc biệt là thanh niên, trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Thực học không chỉ cung cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết cho sự thành công trong tương lai mà còn giúp họ trở thành công dân toàn cầu có trách nhiệm.

Một số giá trị cốt lõi của thực học trong bối cảnh hiện nay:

  • Thích nghi với sự thay đổi: Thực học giúp thanh niên phát triển khả năng thích ứng linh hoạt với các sự thay đổi trong môi trường làm việc và cuộc sống, đặc biệt quan trọng trong một thế giới luôn biến đổi.

  • Sẵn sàng cho tương lai: Việc áp dụng lý thuyết vào thực tiễn giúp thanh niên hiểu rõ cách ứng dụng công nghệ mới như Gen AI và xu hướng mới vào công việc, từ đó đảm bảo sẵn sàng cho các cơ hội nghề nghiệp trong tương lai.

  • Phát triển kỹ năng sống: Thực học tăng cường kỹ năng mềm như giao tiếp, làm việc nhóm, giải quyết vấn đề, những kỹ năng này ngày càng được đánh giá cao trong môi trường làm việc hiện đại.

  • Kích thích sự sáng tạo và đổi mới: Bằng cách áp dụng kiến thức vào việc giải quyết các vấn đề thực tế, thanh niên được khuyến khích sáng tạo và tìm ra giải pháp đột phá, từ đó thúc đẩy tinh thần đổi mới.

  • Kết nối thế giới: Thực học mở rộng hiểu biết và tạo cơ hội cho thanh niên kết nối với các văn hóa và quan điểm khác nhau, giúp họ trở thành công dân toàn cầu có khả năng làm việc trong môi trường đa văn hóa.

  • Tự học và phát triển cá nhân: Thực học khuyến khích sự tự giác học hỏi và tự phát triển, giúp thanh niên tự cải thiện bản thân một cách liên tục để đáp ứng với yêu cầu của cuộc sống và công việc.

  • Đóng góp vào cộng đồng: Qua thực học, thanh niên có cơ hội áp dụng kiến thức của mình vào việc giải quyết các vấn đề cộng đồng, từ đó đóng góp vào sự phát triển bền vững của xã hội.

Với những giá trị trên, thực học không chỉ là nền tảng giáo dục quan trọng cho thanh niên trong kỷ nguyên mới mà còn là cầu nối giữa họ với cơ hội và thành công trong một thế giới ngày càng toàn cầu hóa và kỹ thuật số hóa.

Hướng đến nền giáo dục thực học, thực dạy

Để xây dựng chương trình giáo dục phổ thông mới, bước đầu quan trọng là phải xác định một triết lý giáo dục mới phù hợp. Triết lý này xuất phát từ quan điểm của John Dewey, một nhà giáo dục nổi tiếng người Mỹ, rằng "Giáo dục là bản thân cuộc sống". Đồng thời, nó cần phải đáp ứng các tiêu chí phát triển của đất nước hiện nay: dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Ngoài ra, triết lý cũng cần tuân theo bốn trụ cột của sứ mệnh giáo dục quốc tế cho thế kỷ 21: "Học để biết, học để làm, học để cùng chung sống và học để tồn tại". Dựa trên những nguyên tắc này, triết lý giáo dục mới cần phản ánh quan điểm rằng việc dạy và học nên tập trung vào những kiến thức và kỹ năng mà xã hội cần, thay vì những điều mà giáo viên muốn truyền đạt. Từ những nguyên lý này, có thể đề xuất bốn thuộc tính cốt lõi của nền giáo dục Việt Nam là "thực học, dân chủ, dân tộc và khai phóng".

Trong khi "thực học" như là một lẽ đương nhiên và không thể thiếu đối với các quốc gia phát triển, thì ở Việt Nam, nơi mà truyền thống học để thi đỗ vào các vị trí quan trọng và vấn đề dạy học giả để lấy bằng cấp vẫn còn tồn tại.

Thực trạng giáo dục tại Việt Nam đã chỉ ra rằng, cần phải phân định rõ ràng chức năng của chương trình học so với sách giáo khoa (SGK). Cần quyết liệt từ bỏ nguyên tắc "một chương trình - một bộ SGK thống nhất" và thay vào đó áp dụng nguyên tắc "một chương trình - nhiều bộ SGK". Thay vì coi SGK là pháp lệnh, cần quan điểm rằng "chương trình học là pháp lệnh". Tất cả các hoạt động dạy học, thi cử, thanh tra giáo dục... cần dựa trên chương trình học thay vì tuân theo SGK.

Việc phát triển chương trình học cần được giao cho những chuyên gia có kinh nghiệm và hiểu biết về chương trình học (curriculum development), tuân thủ các nguyên lý khoa học. Đồng thời, các nhà lãnh đạo trong lĩnh vực giáo dục cần thể hiện sự quyết tâm trong việc thúc đẩy sự đổi mới trong tư duy về giáo dục phổ thông. Cần từ bỏ những di sản của cơ chế quan liêu truyền thống, thay vào đó áp dụng cơ chế dân chủ và khoa học, tạo điều kiện cho giáo viên thể hiện sự sáng tạo và chủ động trong quá trình giảng dạy, với sự hỗ trợ và tuân thủ các quy định của chương trình học.

(Nguồn: Pháp luật TP HCM)

Hướng đến nền giáo dục thực học, thực dạy

“Cách mạng sự học” có thể kéo theo “cách mạng sự dạy”, bởi dạy tức là giúp người khác học. Khi các thầy cô thay đổi chính mình theo hướng thực học, họ cũng sẽ có cách giúp học sinh của mình tìm đến chân lý ấy. Nhiều người cho rằng đấy chỉ là những lý thuyết bởi giáo dục ở Việt Nam còn nhiều ràng buộc, khuôn mẫu. Tuy nhiên, ở giáo dục phổ thông, người thầy chính là những gì họ dạy. Nếu “sự học” của thầy cô tốt lên, chắc chắn “sự dạy” tốt theo, không chỉ ở trường lớp mà còn ở chính ngôi nhà của mình. Khi nhiều người đã làm được “cách mạng sự học” sẽ hình thành “cách mạng giáo dục” của toàn xã hội dựa trên nền tảng của “thực học”.